Chương trình giáo dục của Úc cũng giống như Việt Nam được chia thành 4 bậc học chính: Tiểu học, trung  học cơ sở, trung học phổ thông, giáo dục đại học. Tuy nhiên, thời gian học và chương trình học được phân chia phù hợp với đặc điểm phát triển của trẻ em Úc. Nhờ đó, học sinh sinh viên có thể tự lên kế hoạch phát triển con đường học hành và sự nghiệp dễ dàng.

Quá trình học tập tại Đại học Swinburne Việt Nam sẽ trải qua các giai đoạn:

Thời gian học tập chuyên ngành là khoảng 3 năm.

Trong trường hợp sinh viên không đáp ứng yêu cầu tiếng Anh cho các chuyên ngành (IELTS 6.0, B2, PTE 50), bạn sẽ phải theo học chương trình Global Citizen, kéo dài khoảng một năm (6 cấp độ) để cải thiện tiếng Anh và các kỹ năng công dân toàn cầu khác. Chi phí học chương trình Công dân toàn cầu là 28 triệu một học kỳ, nếu sinh viên học 3 học kỳ chi phí là 84 triệu mỗi năm.

Vì vậy, để bớt “chông gai” khổ luyện ngoại ngữ mà vẫn tiết kiệm tài chính, các bạn có thể cân nhắc chuyển sang chinh phục các chứng chỉ khác dễ lấy điểm hơn như PTE.

Hiện nay, PTE là chứng chỉ hàng đầu được các bạn sinh viên và du học sinh tại Úc lựa chọn để đáp ứng yêu cầu tiếng Anh của ngôi trường mơ ước.

Các mức học bổng dành cho sinh viên Swinburne

Sinh viên có cơ hội nhận được học bổng từ 20% – 40% tuỳ theo năng lực và nguyện vọng học tập theo chương trình quốc tế tại Việt Nam. Các bạn có thể đăng ký các vòng thi tuyển và xét học bổng với các mức học bổng dành cho cả chương trình học tập gồm:

Được tham gia học tập trong môi trường quốc tế

Môi trường quốc tế của Đại học Swinburne sẽ giúp học sinh trau dồi phẩm chất của những công dân toàn cầu. Các khóa học 100% và quy trình quản lý học tập được chuyển giao từ Swinburne (Australia). Sau khi tốt nghiệp, sinh viên ra trường có việc làm đảm bảo tại FPT Software.

Sinh viên tại Đại học Swinburne Việt Nam có cơ hội mở rộng kiến ​​thức thực tế, kết hợp với xu hướng ứng dụng công nghệ của các công ty, các tập đoàn hàng đầu thế giới.

Chương trình học sẽ giúp sinh viên phát triển tiềm lực bản thân, học tập khai sáng, tập trung vào đổi mới sáng tạo.

Được cấp bằng quốc tế ngay tại Việt Nam, hưởng quyền lợi như sinh viên Úc

Khi theo học tại Đại học Swinburne Việt Nam, bạn sẽ được hưởng tất cả các đặc quyền như các sinh viên khác khi học tập tại Swinburne (Úc) như:

Vì sao PTE là chứng chỉ tiếng Anh được nhiều bạn sinh viên lựa chọn để nhập học Đại học Swinburne Việt Nam, du học và định cư?

Bài thi PTE được diễn ra hoàn toàn trên máy tính, kể cả kỹ năng Speaking. Đặc biệt, PTE còn sở hữu nhiều ưu điểm so với các kỳ thi tiếng Anh truyền thống.

Nếu trong bài thi IELTS chỉ có thể viết essay để lấy điểm cho kỹ năng Viết (Writing). Và nếu bạn yếu kỹ năng Viết thì chỉ có thể luyện Viết nhiều để nâng band; điều này tốn khá nhiều thời gian và chi phí. Tuy nhiên, với PTE thì bạn hoàn toàn có thể lấy thêm điểm cho kỹ năng Viết ở các phần thi Reading và Listening như điền từ, tóm tắt đoạn văn hay viết chính tả.

Đây cũng là lý do các bạn sinh viên lựa chọn chứng chỉ PTE để đáp ứng yêu cầu tiếng Anh của ngôi trường mơ ước một cách dễ dàng và nhanh chóng nhất. Giúp các bạn tiết kiệm thời gian, chi phí và chủ động hơn trong kế hoạch học tập của mình.

Với chứng chỉ PTE, ngoài việc nhập học tại Đại học Swinburne Việt Nam, bạn còn có thể làm hồ sơ du học, hồ sơ xin cấp thị thực dài hạn hoặc hồ sơ định cư tại nhiều quốc gia.

Nhìn chung, học phí tiếng Anh tại đại học Swinburne cũng thuộc vào hàng đắt đỏ so với mặt bằng ôn luyện tiếng Anh trên cả nước. Tuy nhiên đây lại là mức giá xứng đáng khi người học được tận hưởng môi trường học tập lý tưởng và chất lượng giảng dạy 5 sao. Dù vậy nếu bạn muốn tiết kiệm khoản tiền phí này thì hãy nỗ lực ôn luyện lấy chứng chỉ tiếng Anh để rút ngắn thời gian luyện thi chứng chỉ tiếng Anh, đồng thời tăng trải nghiệm học tập nhé.

Xem thêm: Thông tin chi tiết về chứng chỉ PTE Academic

Trong hệ thống giáo dục Trung Quốc, giáo dục chủ yếu được quản lý bởi hệ thống giáo dục công lập do nhà nước điều hành, nằm dưới sự quản lý của Bộ Giáo dục. Tất cả công dân đều phải tham gia ít nhất là chín năm học, được gọi là giáo dục bắt buộc chín năm, được chính phủ tài trợ.

Giáo dục bắt buộc bao gồm sáu năm học cấp tiểu học, thường bắt đầu từ sáu tuổi và kết thúc vào mười hai tuổi, tiếp theo là ba năm học cấp trung học cơ sở và ba năm học cấp trung học phổ thông.[5]

Các luật pháp ở Trung Quốc quy định hệ thống giáo dục bao gồm Nghị định về Bằng cấp Học vị, Đạo luật Giáo dục Bắt buộc, Đạo luật Giáo viên, Đạo luật Giáo dục, Đạo luật Giáo dục Nghề nghiệp và Đạo luật Giáo dục Đại học.[cần dẫn nguồn]

Năm 2020, Bộ Giáo dục báo cáo việc có thêm 34,4 triệu học sinh mới gia nhập giáo dục bắt buộc, đưa tổng số học sinh tham gia giáo dục bắt buộc lên 156 triệu.[6] Năm 2003, chính phủ trung ương và địa phương ở Trung Quốc hỗ trợ 1.552 cơ sở giáo dục đại học (cao đẳng và đại học), cùng với 725.000 giáo sư và 11 triệu sinh viên của họ.

Năm 1985, chính phủ Trung Quốc đã hủy bỏ việc tài trợ giáo dục đại học bằng thuế, buộc các ứng viên đại học phải cạnh tranh để giành học bổng dựa trên khả năng học vụ của họ. Vào đầu những năm 1980, chính phủ cho phép thành lập cơ sở giáo dục đại học tư nhân đầu tiên, do đó tăng số lượng sinh viên đại học và những người có bằng tiến sĩ từ năm 1995 đến 2005.

Đầu tư của Trung Quốc vào nghiên cứu và phát triển đã tăng 20% mỗi năm từ năm 1999, vượt qua mốc 100 tỷ đô la vào năm 2011. Đến năm 2006, có đến 1,5 triệu sinh viên ngành khoa học và kỹ thuật tốt nghiệp từ các trường đại học Trung Quốc. Đến năm 2008, Trung Quốc đã công bố 184.080 bài báo trong các tạp chí quốc tế nổi tiếng - tăng gấp bảy so với năm 1996.[7][8][9] Năm 2017, Trung Quốc vượt qua Hoa Kỳ với số lượng bài báo khoa học cao nhất.[10] Năm 2021, có 3.012 trường đại học và cao đẳng (xem Danh sách trường đại học ở Trung Quốc) ở Trung Quốc, và 147 trường Đại học Quốc gia, được coi là một phần của nhóm đại học chất lượng cao (Double First Class), chiếm khoảng 4,6% tổng số cơ sở giáo dục đại học ở Trung Quốc.[11]

Trung Quốc cũng đã trở thành điểm đến hàng đầu cho sinh viên quốc tế và đến năm 2013, Trung Quốc là quốc gia phổ biến nhất ở châu Á đối với sinh viên quốc tế và đứng thứ ba trên toàn thế giới.[12][13] Trung Quốc hiện là điểm đến hàng đầu trên toàn cầu cho sinh viên người Bắc Phi nói tiếng Anh và là quốc gia có số lượng sinh viên quốc tế lớn thứ hai trên thế giới[14]. Có 17 trường đại học Trung Quốc được liệt kê trong danh sách 200 trường đại học hàng đầu thế giới, chỉ đứng sau Hoa Kỳ và Vương quốc Anh theo Hệ thống xếp hạng tổng hợp năm 2023 của các bảng xếp hạng đại học ảnh hưởng nhất thế giới (ARWU+QS+THE).[15]

Thượng Hải, Bắc Kinh, Giang Tô và Chiết Giangđã vượt qua tất cả các hệ thống giáo dục khác trong Chương trình Đánh giá Sinh viên Quốc tế. Hệ thống giáo dục của Trung Quốc đã được chú ý vì sự tập trung vào việc ghi nhớ thông tin và chuẩn bị cho kỳ thi.[16]

Nâng cao học vị dân chúng là trung tâm của giáo dục trong những năm đầu của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.[17] Năm 1949, tỷ lệ biết chữ chỉ từ 20-40%.[17] Chính phủ cộng sản tập trung vào việc cải thiện biết chữ thông qua cả hệ thống học tập chính thức và các chiến dịch biết chữ. Trong 16 năm đầu của quốc hội cộng sản, số học sinh tiểu học tăng gấp ba lần,[17] số học sinh trung học tăng gấp 8,5 lần và số sinh viên đại học tăng gấp bốn lần.[18]

Kể từ sau Cách mạng Văn hóa (1966-1976), hệ thống giáo dục ở Trung Quốc đã được định hình theo hướng hiện đại hóa kinh tế. [cần dẫn nguồn] Năm 1985, chính phủ trung ương chuyển trách nhiệm về giáo dục cơ bản cho chính quyền địa phương thông qua "Quyết định về Cải cách Cơ cấu Giáo dục" của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Với kế hoạch cải cách giáo dục vào tháng 5 năm 1985, chính quyền kêu gọi việc có chín năm giáo dục bắt buộc và thành lập Bộ Giáo dục (được tạo ra trong tháng tiếp theo). Cam kết chính thức đối với việc cải thiện giáo dục nơi nào cũng rõ ràng nhất là sự tăng lớn đáng kể về nguồn lực cho giáo dục trong Kế hoạch 5 nămt (1986-1990), với số nguồn lực tăng 72% so với kế hoạch trước đó (1981-1985). Năm 1986, 16,8% ngân sách nhà nước được dành cho giáo dục, so với 10,4% vào năm 1984.

Do liên tục thay đổi trong nội bộ Đảng, chính sách chính thức đã luân phiên giữa những mệnh lệnh tư tưởng và những nỗ lực thiết thực để thúc đẩy giáo dục quốc gia. [cần dẫn nguồn] Đại nhảy vọt (1958-1960) và Phong trào Giáo dục Xã hội (1962-1965) nhằm chấm dứt tình trạng đặc quyền học thuật sâu sắc, thu hẹp khoảng cách xã hội và văn hóa giữa công nhân và nông dân, giữa dân thành thị và dân quê, và loại bỏ xu hướng của học giả và nhà trí thức coi thường lao động tay chân. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, việc tạo ra sự bình đẳng xã hội toàn diện là ưu tiên hàng đầu.

Lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc sau thời kỳ Mao Trạch Đông xem giáo dục là nền tảng của Bốn Hiện Đại. Đầu những năm 1980, giáo dục về khoa học và công nghệ trở thành một trọng tâm quan trọng của chính sách giáo dục. Đến năm 1986, việc đào tạo nhân sự tay nghề và mở rộng kiến thức khoa học và kỹ thuật đã được ưu tiên hàng đầu. Mặc dù các môn nhân văn được coi là quan trọng, nhưng kỹ năng nghề nghiệp và kỹ thuật được coi là quan trọng nhất để đáp ứng mục tiêu hiện đại hóa của Trung Quốc.

Sự đổi hướng của ưu tiên giáo dục cũng tương đồng với chiến lược phát triển kinh tế của Đặng Tiểu Bình. Sự chú trọng cũng được đặt vào việc đào tạo sâu rộng của đội ngũ lãnh đạo đã được đào tạo trước đó, người sẽ tiếp tục chương trình hiện đại hóa trong những thập kỷ tiếp theo. Một sự tập trung mới vào khoa học và công nghệ hiện đại đã dẫn đến việc thực hiện một chính sách hướng ngoại, khuyến khích học và mượn kiến thức từ nước ngoài cho đào tạo nâng cao trong một loạt các lĩnh vực khoa học, bắt đầu từ năm 1976.

Bắt đầu từ Hội nghị Toàn quốc lần thứ Ba của Ban Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 12 năm 1978, các nhà trí thức được khuyến khích theo đuổi nghiên cứu để hỗ trợ Bốn Hiện Đại Hóa và, miễn là họ tuân thủ với "Bốn nguyên tắc cơ bản" của Đảng, họ được có tư duy khá tự do. Khi Đảng và chính phủ xác định rằng cấu trúc của bốn nguyên tắc quan trọng đã bị kéo giãn vượt quá giới hạn chấp nhận được, họ có thể hạn chế biểu hiện trí thức.

Văn học và nghệ thuật cũng trải qua một sự phục hồi lớn vào cuối những năm 1970 và những năm 1980. Các hình thức truyền thống lại phồn thịnh, và nhiều loại văn hóa và biểu hiện nghệ thuật mới được giới thiệu từ nước ngoài.

Năm 2003, Bộ Giáo dục của Trung Quốc kêu gọi việc thêm nội dung giáo dục môi trường trong toàn bộ chương trình giáo dục công lập từ năm đầu tiên của trường tiểu học đến năm thứ hai của trường trung học phổ thông.[19]

Từ những năm 1950, Trung Quốc đã triển khai giáo dục bắt buộc chín năm cho khoảng một phần năm dân số thế giới. Đến năm 1999, giáo dục tiểu học đã được tổng hợp ở 90% Trung Quốc, và giáo dục bắt buộc chín năm hiện đang áp dụng cho khoảng 85% dân số. Ngân sách giáo dục do chính phủ trung ương và các tỉnh thay đổi theo khu vực, và ở các vùng nông thôn, ngân sách thường thấp hơn đáng kể so với các khu vực đô thị lớn. Gia đình bổ sung tiền được cung cấp cho trường học bởi chính phủ bằng học phí.

Đối với giáo dục không bắt buộc, Trung Quốc áp dụng một cơ chế chi phí chung, đặt học phí ở một tỷ lệ nhất định so với chi phí. Đồng thời, để đảm bảo sinh viên từ gia đình có thu nhập thấp có cơ hội tiếp cận giáo dục đại học, chính phủ đã khởi xướng các biện pháp hỗ trợ, với chính sách và biện pháp như học bổng, chương trình học làm việc và trợ cấp cho sinh viên có khó khăn về kinh tế, giảm hoặc miễn giảm học phí và trợ cấp của nhà nước.

Tỉ lệ mù chữ ở nhóm tuổi trẻ và trung niên đã giảm từ trên 80% xuống còn 5%. Hệ thống đã đào tạo khoảng 60 triệu chuyên gia cấp trung hoặc cao cấp và gần 400 triệu lao động đạt đến trình độ trung học cơ sở hoặc trung học phổ thông. Hiện nay, có 250 triệu người Trung Quốc có ba cấp độ giáo dục (tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông), gấp đôi tốc độ tăng trưởng so với trên thế giới trong cùng thời kỳ. Tỉ lệ nhập học trường tiểu học đã đạt 98,9%, và tỉ lệ nhập học trung học cơ sở là 94,1%.[20] Đến năm 2015, các trường tiểu học và trung học cơ sở (trung học cơ sở) do chính phủ vận hành ở Trung Quốc có 28,8 triệu học sinh.[21]

Sinh viên Trung Quốc đã đạt được nhiều huy chương vàng hàng năm tại nhiều Cuộc thi Olympic Khoa học Quốc tế như Olympic Sinh học Quốc tế,[22]Olympic Vật lý Quốc tế,[23] Olympic Quốc tế về Thiên văn học và Vật lý thiên văn,[24] Olympic Tin học Quốc tế, Olympic Khoa học Trái đất Quốc tế,[25] Olympic Toán học Quốc tế,[26] Olympic Vật lý Quốc tế[27] và Olympic Hóa học Quốc tế.[28] Đến năm 2022, Trung Quốc đứng đầu bảng xếp hạng về tổng số huy chương tại Olympic Toán học Quốc tế từ khi tham gia lần đầu vào năm 1985.[29] Trung Quốc cũng đứng đầu bảng xếp hạng về tổng số huy chương tại Olympic Vật lý Quốc tế, Olympic Hóa học Quốc tế và Olympic Tin học Quốc tế.[30][31][32]

Theo cuộc khảo sát năm 2009 từ Chương trình Đánh giá Sinh viên Quốc tế (PISA), một đánh giá toàn cầu về hiệu suất học thuật của học sinh 15 tuổi do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) tiến hành, học sinh Trung Quốc, đặc biệt là từ Thượng Hải, đã đạt được kết quả tốt nhất trong toán học, khoa học và đọc hiểu.[33][33] OECD cũng phát hiện rằng ngay cả ở một số khu vực nông thôn cực kỳ nghèo, hiệu suất cũng gần bằng trung bình của OECD.[34] Trong khi điểm trung bình trên quốc tế được báo cáo, xếp hạng của Trung Quốc được lấy từ chỉ một số khu vực chọn lọc.[35] Kết quả PISA 2018 cho thấy học sinh ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Giang Tô và Chiết Giang đứng đầu bảng xếp hạng về đọc hiểu, toán học và khoa học và trẻ em học sinh Trung Quốc hiện nay được coi là thông minh nhất thế giới.[36][37] Tổng thư ký của OECD, Angel Gurria, nói rằng học sinh từ bốn tỉnh Trung Quốc này "đã vượt xa đồng đẳng họ học sinh từ tất cả 78 quốc gia tham gia khác" và 10% học sinh có điều kiện kinh tế xã hội thấp nhất ở bốn khu vực này "cũng có kỹ năng đọc tốt hơn so với học sinh trung bình ở các quốc gia của OECD, cũng như có kỹ năng tương tự như 10% học sinh được hưởng lợi nhiều nhất ở một số quốc gia của OECD." Ông cảnh báo rằng bốn tỉnh và thành phố này "rất xa là đại diện cho Trung Quốc." Tuy nhiên, dân số của họ lên tới hơn 180 triệu người, và kích thước mỗi khu vực tương đương với một quốc gia của OECD bình thường, ngay cả khi thu nhập của họ thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình của OECD. "Những thành tựu của họ càng trở nên ấn tượng hơn khi mức thu nhập của bốn khu vực Trung Quốc này thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình của OECD".[38][37]

Vào những năm 1980, Chương trình MBA ít người biết đến, nhưng đến năm 2004 đã có 47,000 người học MBA, được đào tạo tại 62 trường MBA. Nhiều người cũng đăng ký các chứng chỉ quốc tế, như EMBA và MPA; gần 10,000 sinh viên MPA đang theo học tại 47 trường đại học, bao gồm Đại học Bắc Kinh và Đại học Tsinghua. Thị trường giáo dục đã phát triển mạnh mẽ, với đào tạo và kiểm tra chứng chỉ chuyên nghiệp, như máy tính và ngoại ngữ, đang thịnh hành. Giáo dục liên tục là xu hướng, một lần học trường đã trở thành học suốt đời.

Đầu tư vào giáo dục đã tăng lên trong những năm gần đây; tỷ lệ ngân sách chung được cấp cho giáo dục đã được tăng lên một điểm phần trăm mỗi năm kể từ năm 1998. Theo một chương trình của Bộ Giáo dục, chính phủ sẽ xây dựng một hệ thống tài chính giáo dục phù hợp với hệ thống tài chính công, tăng cường trách nhiệm của chính phủ ở mọi cấp độ trong đầu tư giáo dục, và đảm bảo rằng phân bổ tài chính của họ cho chi phí giáo dục tăng nhanh hơn so với doanh thu thường xuyên của họ. Chương trình cũng đề ra mục tiêu của chính phủ là đầu tư giáo dục sẽ chiếm 4% GDP trong một khoảng thời gian tương đối ngắn.

Chính sách cải cách giáo dục toàn diện của Đặng Tiểu Bình, liên quan đến mọi cấp độ của hệ thống giáo dục, nhằm thu hẹp khoảng cách giữa Trung Quốc và các quốc gia phát triển khác. Do đó, việc hiện đại hóa giáo dục là quan trọng để hiện đại hóa Trung Quốc, bao gồm cả việc chuyển quyền quản lý giáo dục từ trung ương xuống cấp địa phương như là phương tiện được chọn để cải thiện hệ thống giáo dục. Tuy nhiên, quyền lực tập trung không được bỏ qua, như được chứng minh bằng việc thành lập Bộ Giáo dục.

Mục tiêu của cải cách trong lĩnh vực học thuật là nâng cao và phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; tăng cường số lượng trường học và giáo viên đủ chất lượng, cũng như phát triển giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật. Một tiêu chuẩn đồng nhất cho chương trình học, sách giáo trình, kỳ thi và chất lượng giáo viên (đặc biệt là ở cấp trung học cơ sở) đã được thiết lập, và sự tự trị lớn và sự biến động trong và giữa các vùng tự trị, các tỉnh và các đô thị trực thuộc trung ương đã được chấp nhận. Hơn nữa, hệ thống tuyển sinh và phân công công việc trong giáo dục đại học đã được thay đổi, với việc giảm kiểm soát của chính phủ đối với các trường đại học và cao đẳng.

Chuyển giao lưu truyền thống của ý thức xã hội chủ nghĩa qua các thế hệ là cam kết rõ ràng của hệ thống giáo dục Trung Quốc.[39] Năm 1991, Đảng cộng sản đã bắt đầu Chiến dịch Giáo dục Yêu nước trên toàn quốc.[40] Trọng tâm chính của chiến dịch là trong lĩnh vực giáo dục, và sách giáo trình đã được sửa đổi để giảm bớt các câu chuyện về đấu tranh giai cấp và nhấn mạnh vai trò của Đảng trong việc chấm dứt thế kỷ nhục nhã. Như một phần của chiến dịch, các Cơ sở Giáo dục Yêu nước đã được thành lập, và các trường từ cấp tiểu học đến cấp đại học đã được yêu cầu đưa học sinh đến các địa điểm có ý nghĩa đối với Cách mạng Trung Quốc.[40]

Tại một hội nghị giáo dục quốc gia tổ chức tại Bắc Kinh vào ngày 10 tháng 9 năm 2018, Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình nhấn mạnh sự quan trọng của việc giảng dạy Chủ nghĩa Xã hội Trung Quốc cho thanh thiếu niên của đất nước, nhằm tạo điều kiện cho sự ủng hộ Đảng Cộng sản và các chính sách của nó.[41]

Kế hoạch Năm năm của Trung Quốc là một phương tiện quan trọng để điều phối chính sách giáo dục.[42]

Đạo luật về Giáo dục Bắt buộc Chín Năm (中华人民共和国义务教育法), có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 1986, đã xác lập các yêu cầu và thời hạn để đạt được giáo dục toàn diện phù hợp với điều kiện địa phương và đảm bảo quyền của trẻ em tuổi học đến ít nhất chín năm (sáu năm giáo dục tiểu học và ba năm giáo dục trung học). Quốc hội ở các cấp độ địa phương sẽ, dựa trên một số hướng dẫn và theo điều kiện địa phương, quyết định các bước, phương pháp và thời hạn để thực hiện giáo dục bắt buộc chín năm theo các hướng dẫn được tổ chức bởi chính quyền trung ương. Chương trình này nhằm đưa các khu vực nông thôn, nơi có bốn đến sáu năm giáo dục bắt buộc, đồng bộ với các khu vực thành thị. Các bộ giáo dục đã được kêu gọi đào tạo hàng triệu công nhân chuyên nghiệp cho tất cả các nghề nghiệp và nghề nghiệp và cung cấp hướng dẫn, chương trình học và phương pháp để tuân thủ theo chương trình cải cách và nhu cầu hiện đại hóa.

Các cơ quan chính quyền cấp tỉnh sẽ phát triển kế hoạch, ban hành các sắc lệnh và quy tắc, phân phối quỹ cho các huyện và quản lý trực tiếp một số trường trung học quan trọng. Các cơ quan huyện sẽ phân phối quỹ cho mỗi chính quyền thị trấn, nơi sẽ đền bù cho bất kỳ thiếu sót nào. Các cơ quan huyện sẽ giám sát giáo dục và giảng dạy và quản lý trực tiếp các trường trung học phổ thông, các trường sư phạm, các trường đào tạo nghề cho giáo viên, các trường nghề nghiệp nông nghiệp và các trường tiểu học và trung học mẫu giáo. Các trường còn lại sẽ được quản lý riêng biệt bởi chính quyền huyện và thị trấn.

Đạo luật giáo dục bắt buộc chín năm chia Trung Quốc thành ba loại: các thành phố và các khu vực kinh tế phát triển ở các tỉnh ven biển và một số khu vực phát triển ở phía nội địa; thị trấn và làng với sự phát triển trung bình; và các khu vực kinh tế lạc hậu.

Đến tháng 11 năm 1985, loại hình đầu tiên - các thành phố lớn và khoảng 20% các huyện (chủ yếu ở các khu vực phía biển và đông nam của Trung Quốc) - đã đạt được giáo dục 9 năm tự do. Đến năm 1990, các thành phố, các khu vực phát triển kinh tế ở các đơn vị cấp tỉnh ven biển, một số khu vực nội địa đã phát triển (khoảng 25% dân số Trung Quốc), và các khu vực nơi giáo dục trung học cơ sở đã được phổ biến đã nhắm đến việc có giáo dục trung học cơ sở tự do.

Người lập kế hoạch giáo dục nghĩ đến rằng vào giữa thập kỷ 1990, tất cả các công nhân và nhân viên ở các khu vực ven biển, các thành phố nội địa và các khu vực phát triển trung bình (với tổng dân số từ 300 triệu đến 400 triệu người) sẽ có giáo dục bắt buộc 9 năm hoặc giáo dục nghề nghiệp và 5% dân số trong các khu vực này sẽ có giáo dục đại học, xây dựng nền tảng trí tuệ vững chắc cho Trung Quốc. Ngoài ra, người lập kế hoạch mong đợi rằng giáo dục trung học và đại học sẽ tăng lên vào năm 2000.

Loại hình thứ hai được nhắm đến dưới Đạo luật Giáo dục Bắt buộc Chín Năm bao gồm các thị trấn và làng với sự phát triển trung bình (khoảng 50% dân số Trung Quốc), nơi giáo dục tự do dự kiến sẽ đạt đến cấp giáo dục trung học cơ sở vào năm 1995. Giáo dục kỹ thuật và cao cấp cũng được dự kiến sẽ phát triển theo tỷ lệ tương tự.

Loại hình thứ ba, các khu vực kinh tế lạc hậu (nông thôn) (khoảng 25% dân số Trung Quốc), sẽ phổ cập giáo dục cơ bản mà không có lịch trình cụ thể và ở các cấp độ khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế địa phương, mặc dù nhà nước sẽ cố gắng hỗ trợ phát triển giáo dục. Nhà nước cũng sẽ hỗ trợ giáo dục ở các khu vực dân tộc thiểu số. Trong quá khứ, các khu vực nông thôn, thiếu một hệ thống giáo dục tiểu học chuẩn hóa và tự do, đã sản xuất ra những thế hệ người mù chữ; chỉ có 60% số học sinh tốt nghiệp tiểu học của họ đạt đến các tiêu chuẩn đã đề ra.

Là một ví dụ khác về cam kết của chính phủ đối với giáo dục bắt buộc chín năm, vào tháng 1 năm 1986, Hội đồng Nhà nước soạn thảo một dự luật được thông qua tại Kỳ họp thứ 14 của Uỷ ban Thường trực Quốc hội nhân dân lần thứ 6, nói rằng bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào tuyển dụng thanh thiếu niên trước khi họ hoàn thành 9 năm học sẽ bị coi là bất hợp pháp. Dự luật cũng ủy quyền giáo dục tự do và cung cấp trợ cấp cho sinh viên thuộc các gia đình gặp khó khăn tài chính.[43]

Giáo dục tiểu học miễn phí, mặc dù có luật giáo dục bắt buộc, vẫn chỉ là một mục tiêu chưa thực hiện được trong toàn bộ Trung Quốc. Vì nhiều gia đình gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản học phí, một số trẻ em buộc phải rời trường sớm hơn mục tiêu chín năm.

Hệ thống 9 năm được gọi là "Chín Năm - Một Chính sách", hoặc "九年一贯制" trong tiếng Trung. Thông thường, nó đề cập đến sự hợp nhất giáo dục tiểu học và trung học. Sau khi tốt nghiệp tiểu học, học sinh có thể trực tiếp nhập học vào trung học cơ sở. Các lớp học trong các trường thực hiện Hệ thống 9 năm thường được gọi là Lớp 1, Lớp 2, và tiếp theo đến Lớp 9.

Đặc điểm chính của Hệ thống 9 năm:

Năm 2001, chính phủ Trung Quốc khởi động "Kế hoạch hai miễn và một trợ cấp". Học sinh đến từ gia đình nghèo học giáo dục bắt buộc ở các khu vực nông thôn được miễn phí phí linh tinh và phí sách, và học sinh ở ký túc xá được trợ cấp từ từ về sinh sống. Năm 2007, tất cả học sinh nông thôn học giáo dục bắt buộc từ gia đình nghèo đều được hưởng chính sách hai miễn và một trợ cấp, tổng cộng khoảng 50 triệu học sinh. Bắt đầu từ năm 2017, chính sách hai miễn và một trợ cấp dưới hệ thống thống nhất nông thôn-đô thị sẽ được thực hiện.[44][45][46][47]

Giáo dục cơ bản ở Trung Quốc bao gồm giáo dục mẫu giáo, giáo dục bắt buộc chín năm từ tiểu học đến trung học cơ sở, giáo dục trung học phổ thông tiêu chuẩn, giáo dục đặc biệt cho trẻ em tàn tật và giáo dục cho những người mù chữ.

Trung Quốc có hơn 200 triệu học sinh tiểu học và trung học, cùng với trẻ em mẫu giáo, chiếm một sáu của tổng dân số. Vì lý do này, Chính phủ Trung ương đã ưu tiên giáo dục cơ bản như một lĩnh vực chủ chốt của xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển giáo dục.

Trong những năm gần đây, giáo dục trung học phổ thông đã phát triển ổn định. Năm 2004, số học sinh nhập học là 8.215 triệu, gấp 2,3 lần so với năm 1988. Tỷ lệ nhập học trung học phổ thông trên toàn quốc đã đạt 43,8%, vẫn thấp hơn so với các nước phát triển khác.

Chính phủ đã tạo ra một quỹ đặc biệt để cải thiện điều kiện ở các trường tiểu học và trung học của Trung Quốc, cho các công trình xây dựng mới, mở rộng và xây dựng lại cơ sở hạ tầng xuống cấp. Chi phí giáo dục đối với mỗi học sinh tiểu học và trung học đã tăng lên đáng kể, thiết bị giảng dạy và nghiên cứu, sách và tài liệu được cập nhật và đổi mới mỗi năm.

Mục tiêu của chính phủ cho sự phát triển của hệ thống giáo dục cơ bản ở Trung Quốc là tiếp cận hoặc đạt đến mức của các nước phát triển trung bình vào năm 2010.

Các tốt nghiệp của các trường tiểu học và trung học ở Trung Quốc đạt điểm cao cả về kỹ năng cơ bản và kỹ năng tư duy;[48] tuy nhiên, do sức khỏe kém, học sinh nông thôn thường bỏ học hoặc thiếu thành tích.[49]

Chuyên mục: Tri thức và Văn hóa (1)

[Lưu ý: “Giáo dục Trung Quốc” ở đây đề cập đến giáo dục truyền thống của Trung Quốc trong lịch sử, chứ không phải là giáo dục theo định hướng kiểm tra ở Trung Quốc đại lục ngày nay.]

Trước đây, tôi luôn cảm thấy rằng văn hóa Trung Quốc rất sâu sắc. Người cổ đại Trung Quốc rất khôn ngoan, nhưng họ luôn chấp nhận một câu nói rằng giáo dục của Trung Quốc quá lạc hậu. Cho đến triều đại nhà Thanh, giáo dục được dạy theo cách riêng tư. Ở trường tiểu học sẽ học “Tam Tự Kinh”, “Ấu học Quỳnh Lâm”, lớn tuổi hơn sẽ học Tứ thư Ngũ kinh. Tất nhiên, cũng có “Chín chương số học”.

Một mặt, không có tính phổ quát, chỉ có một ít người có thể học. Mặt khác, phương pháp tính toán của nó rất phức tạp, vì không như chữ số Ả Rập, các phép tính và công thức rất phức tạp để viết. Ngôn ngữ lại là “chi hồ giả dã” (Bốn tiếng hư tự dùng trong cổ văn Trung Hoa, người học chữ Hán là phải học cách dùng những tiếng này) rất khó đọc và sử dụng.

Giáo dục ở phương Tây rất phức tạp, và có nhiều trường học ở trường tiểu học. Có ngôn ngữ, toán học, âm nhạc, nghệ thuật, tự nhiên, thể thao, v.v., cho đến cao cấp, cũng như vật lý, hóa học, sinh học, địa lý, lịch sử, kinh tế, quản lý và thậm chí cả tâm lý học. Và tất nhiên có chính trị (“chính trị” này là việc trông coi sắp đặt, thi hành, trị lí quốc gia, không phải là “chính trị” của triết lý nhân dân Trung Quốc hiện nay.) Bất cứ điều gì cũng có thể là một khóa học.

Và nó vẫn được chia nhỏ và rất phát triển. Miễn là có môn học đó, bạn có thể thiết lập một khóa học. Tuy nhiên, khi chúng tôi thực sự chạm vào nền giáo dục truyền thống của Trung Quốc, chúng tôi đã phát hiện ra rằng giáo dục Trung Quốc rất phát triển và rất thú vị. B

ạn sẽ thấy rằng khi học Tam Tự Kinh là bạn đang học từ và sự thật cùng lúc, có một ý nghĩa đạo đức trong đó, được gọi là “văn dĩ tải Đạo”, trong khi toán học phương Tây, vật lý, hóa học, âm nhạc, nghệ thuật, thể thao, bao gồm cả ngôn ngữ, nó chỉ là những kỹ năng, nhưng không có hàm nghĩa đạo đức, nó chỉ truyền bá kiến ​​thức.

Giáo dục truyền thống Trung Quốc dạy văn hóa, văn hóa có ý nghĩa đạo đức. Còn kiến ​​thức không có ý nghĩa đạo đức. Do đó, tôi luôn gọi các học giả trước đây, và các học giả hiện tại là “trí thức”. Ngày nay, khi bạn đi học đại học, tốt nghiệp, tiến sĩ, sau tiến sĩ, hoặc thậm chí là một chuyên gia hoặc giáo sư, bạn đã không có nghĩa là bạn cao thượng về mặt đạo đức, bạn vẫn sẽ vi phạm pháp luật.

Trên Internet, có một cụm từ “Bạch thiên thị giáo thụ, vãn thiên thị cầm thú” nghĩa là : Ban ngày là giáo sư, ban đêm là cầm thú ). Bởi vì họ không có đạo đức, không có ràng buộc về đạo đức và làm người phải có tiêu chuẩn đạo đức.

Bài viết tiếp theo: Văn hóa Trung Quốc là văn hóa của Thần

Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.

Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.

Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).

Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!

Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!

Giáo dục là ngành học trang bị kiến thức nền tảng về tâm lý giáo dục, quản lý giáo dục, giúp xây dựng và bồi dưỡng năng lực xây dựng kế hoạch, thiết kế, triển khai và đánh giá các hoạt động giáo dục, tư vấn, quản lý trường học, các cơ quan, cơ sở, trung tâm về giáo dục, các tổ chức phi chính phủ, đoàn thể xã hội có liên quan tới giáo dục…

Trong lĩnh vực này, bạn có thể chọn trở thành một nhà giáo dục:

2. ĐIỂM NỐI BẬT NGÀNH GIÁO DỤC TẠI ÚC

- 13 trường đại học Úc được xếp hạng trong 100 trường hàng đầu thế giới về giảng dạy ngành Giáo dục

- Giáo dục và Đào tạo là một trong những ngành phát triển nhanh nhất của Úc

- Từ năm 2010, Chính phủ Úc đã đầu tư hàng tỷ đô vào các trường học để giúp xây dựng Môi trường học tập sáng tạo (ILESs)

Theo học chương trình Cử nhân ngành Giáo dục sinh viên sẽ có cơ hội thực tập ngay từ kỳ học đầu tiên. Điều này giúp sinh viên làm quen với môi trường học, tìm hiểu sâu hơn về ngành. Bạn sẽ được trau dồi kiến thức như: phương pháp quản lý, phương pháp giảng dạy, hoạt động ngoại khóa....

Sau khi tốt nghiệp chương trình Cử nhân Giáo dục, bạn có thể tiếp tục học lên cao với chương trình Cao học ngành Giáo dục.

Tại đây, sinh viên sẽ được cung cấp những kiến thức chuyên sâu hơn về ngành cũng như những vấn đề về kinh tế- chính trị- xã hội, xu hướng quản lý giáo dục trong bối cảnh hiện đại.

Đa số, những sinh viên theo học Cao học ngành Giáo dục đều nhằm đào tạo cán bộ quản lý. Họ sẽ trở thành những cán bộ nghiên cứu, giảng viên hoặc chuyên viên cao cấp. Sau khi tốt nghiệp, có đủ năng lực để công tác tại các cơ quan giáo dục, trường học, viện nghiên cứu, giảng dạy.

4. ĐIỀU KIỆN NHẬP HỌC NGÀNH GIÁO DỤC TẠI ÚC

- Bậc Đại học: tốt nghiệp THPT và IELTS tối thiểu 7.0

- Bậc sau đại học: Tốt nghiệp cử nhân và IELTS 7.5

5. TẠI SAO NÊN CHỌN NGÀNH GIÁO DỤC TẠI ÚC?

5.1. Môi trường học tập hiện đại, chất lượng

Úc luôn được coi là đất nước có chất lượng giáo dục hàng đầu thế giới. Theo học tại đây, bạn sẽ được tiếp xúc với nền giáo dục hiện đại, phương pháp giảng dạy khoa học. Nhà trường luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sinh viên. Ngành Giáo dục tại Úc rất chú trọng vào yếu tố thực tiễn trong giảng dạy.

Ngay từ học kỳ đầu tiên, sinh viên đã được làm việc và tiếp xúc thực tế. Họ sẽ được học tập, trải nghiệm trong môi trường thực tế. Do đó, đáp ứng được nhu cầu làm việc, công tác sau khi ra trường.

Ngoài ra, các trường học đào tạo ngành Giáo dục tại Úc còn cung cấp kỹ năng về lãnh đạo, giao tiếp. Điều này giúp hình thành một con người năng động, hội tụ đầy đủ những ưu điểm, có thể thích ứng với mọi hoàn cảnh, mọi công việc.

Việc thiếu nhân lực ngành Giáo dục luôn là nỗi lo của nhiều quốc gia trên thế giới. Điều này mang đến cơ hội nghề nghiệp rất cao cho sinh viên khi du học tại Úc. Do có tiều chuẩn giáo dục cao và các chương trình giảng dạy tiên tiến và kỹ thuật sáng tạo, giáo viên Úc được tìm kiếm trên khắp cả nước và nước ngoài.  Sau khi tốt nghiệp, sinh viên sẽ được cấp bằng quốc tế, có thể làm việc tại mọi quốc gia.

Theo VU Australian Graduate Survey, có đến 93% sinh viên quốc tế Úc tốt nghiệp khóa cử nhân ngành Giáo dục tìm được việc làm ưng ý trong vòng 4 tháng đầu sau tốt nghiệp. Úc đứng thứ tư trên thế giới về những đãi ngộ dành cho nhà giáo. Kết quả này được tiến hành và công bố bởi Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) 2015. Trung bình mức lương của những người làm trong lĩnh vực Giáo dục đào có thu nhập bình quân tầm 65.000 AUD/năm.

Hiện nay, chính phủ Úc đang cho phép các trường đại học, cao đẳng tuyển sinh theo các bậc đào tạo liên quan đến giáo dục, cao đẳng tuyển sinh theo các bậc đào tạo liên quan đến giáo dục với học phí thấp. Thậm chí, Úc còn tạo điều kiện để sinh viên được ở lại làm việc từ 3- 6 năm sau khi tốt nghiệp.

6. TOP NHỨNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀO TẠO NGÀNH GIÁO DỤC TỐT TẠI ÚC

Ngành giáo dục của trường đại học James Cook được đánh giá 5 sao về tỷ lệ tìm kiếm việc làm của sinh viên. Theo học tại đây, sinh viên sẽ được giảng dạy các kiến thức, kỹ năng chuyên sâu để giảng dạy ở các vùng sâu, vùng xa hay thành thị, và đặc biệt có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Yêu cầu đầu vào của trường đại học James Cook:

- Cao đẳng: IELTS 5.5 (không kỹ năng nào dưới 5)

- Cử nhân: IELTS 7.5, điểm nói và nghe tối thiểu 8.0, 2 kỹ năng còn lại tối thiểu 7.0.

Sau Đại học: Bằng Cử nhân của Úc hoặc tương đương, IELTS tối thiểu 6.5 (trong đó không có kỹ năng nào dưới 6.0 IELTS).

Đai học Victoria là một trong 5 trường đại học đào tạo tất cả các bậc ở Úc. Vì vậy, bạn có thể yên tâm hoàn thành toàn bộ lộ trình học ngành giáo dục từ dự bị đại học lên tới thạc sĩ, tiến sĩ mà không phải chuyển trường. Các ngành giáo dục ở trường khá đa dạng, bao gồm:

Yêu cầu đầu vào của đại học Victoria:

- Cao đẳng: Tốt nghiệp THPT, GPA 6.5, IELTS tối thiểu 5.5 (không có kỹ năng nào dưới 5.0 IELTS)

- Đại học: Bằng Tốt nghiệp THPT với GPA 8.0, Hoặc Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng với GPA 7.0, IELTS tối thiểu 6.0 (không có kỹ năng nào dưới 6.0 IELTS)

Nhắc đến các trường đào tạo ngành giáo dục hàng đầu ở Úc không thể không tới đại học Deakin. Nơi đây có chương trình thực tập hưởng lương nổi tiếng với thời gian làm việc 80 ngày tại hơn 1400 trường đại học của Úc. Hay chương trình giáo dục toàn cầu GEP tới Thụy Sĩ, Bắc Úc, Nepal hay Chile từ 3-5 tuần. Do đó, nếu bạn chưa biết học ngành sư phạm ở đâu, thì Deakin chính là một gợi ý dành cho bạn.

Yêu cầu đầu vào của trường đại học Deakin:

- Cử nhân: Bằng tốt nghiệp THPT, IELTS 7.0 (trong đó không có kỹ năng nào dưới 6.5 IELTS)

- Sau Đại học: Bằng Cử nhân hoặc tương đương, IELTS tối thiểu 6.5.