Trong nền hành chính nhà nước, CSC là bộ phận nền tảng trọng yếu của thể chế hành chính, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành khác của nền hành chính như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ - công chức; tài chính công.
Đánh giá chung quy mô ngành dệt may Việt Nam hiện nay
Khi nhắc đến những ngành hàng xuất khẩu thì không thể bỏ qua dệt may, đây luôn là nguồn thu ngoại tệ chủ lực của Việt Nam. Với sự xuất hiện của nền công nghiệp 4.0, kéo theo sự hiện đại của trang thiết bị, tay nghề nhân công cao và sự ưu đãi của chính sách Nhà nước, chắc chắn quy mô ngành dệt may Việt Nam sẽ còn lớn mạnh hơn.
Có thể nói ngành dệt may được đầu tư và phát triển nổi bật nhất khi nói đến nền công nghiệp Việt Nam. Đến nay, chúng ta có hơn 5000 doanh nghiệp đang hoạt động và có hơn 2,5 triệu lao động trong ngành may mặc. Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc luôn tăng theo từng năm, trong đó việc nhập khẩu nguyên phụ liệu còn nhiều, tác động không nhỏ đến lợi nhuận ngành.
Hiện tại, quy mô ngành dệt may Việt Nam ngày càng được mở rộng và bằng những mặt hàng như áp phông, áo khoác, quần tây, sơ mi,… Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường nhiều nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Châu Âu,…
Năng lực sản xuất của ngành dệt may Việt Nam
Xét riêng về năng lực sản xuất thì dệt may Việt Nam có năng suất cực cao. Vói hơn 5000 doanh nghiệp cùng 2,5 triệu lao động, chúng ta sản xuất hơn 4 tỉ đơn vị sản phẩm một năm. Không những hàng thành phẩm, ngành dệt may còn có những sản phẩm với công suất kinh ngạc như bông xơ 8000 tấn/năm, sợi 900 ngàn tấn/năm, vải hơn 1,5 tỉ m2. Trong đó tỉ lệ nội địa hóa của ngành đạt hơn 50%.
→ Xem thêm: Vai Trò Của Ngành Dệt May Đối Với Nền Kinh Tế Việt Nam Và Thế Giới
Không chỉ sản xuất, năng lực xuất khẩu của dệt may Việt Nam cũng rất ấn tượng. Dệt may là mặt hàng xuất khẩu chỉ đứng thứ 2 sau dầu khí trong những năm gần đây. Quy mô ngành dệt may Việt Nam thật sự lớn và chúng ta đang là nước xuất khẩu ngành hàng này lớn thứ 4 thế giới, chỉ thua Trung Quốc, Ý và Bangladesh. Hơn 5000 doanh nghiệp thì chúng ta đã có đến trên 3100 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu trong số đó, có nhiều doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu đô mỗi năm. Những doanh nghiệp còn lại cũng có kim ngạch tương đối cao với hơn 30% đạt 1 triệu đô, 3,25% đạt 50 triệu đô.
Phương thức hoạt động của dệt may Việt Nam
Như các bạn đã thấy, quy mô ngành dệt may Việt Nam khá lớn, nhưng chủ yếu hoạt động bằng 2 phương thức chính đó là CMT và FOB.
CMT – nghĩa là Cut – Make – Trim, là phương thức gia công và xuất khẩu đơn giản nhất. Có đến 70% doanh nghiệp may Việt Nam đang hoạt động với phương thức này. Với phương thức CMT, doanh nghiệp chỉ thực hiện việc duy nhất đó là gia công và điều thực sự cần thiết đó là năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Còn lại, nguyên vật liệu đầu vào là sự hợp tác giữa khách hàng, đại lý mua hoặc các tổ chức có nhu cầu sử dụng sản phẩm. Với việc quá nhiều doanh nghiệp hoạt động dựa trên CMT, chúng ta có ngành dệt may tăng trưởng khá nhanh nhưng giá trị gia tăng của ngành còn thấp.
FOB là phương thức giúp giá trị gia tăng của ngành tốt hơn. Khi hoạt động dưới hình thức này, doanh nghiệp sẽ tham gia từ đầu vào quá trình sản xuất, tự chủ nguyên liệu, tự do thiết kế, sản xuất sản phẩm và cuối cùng là bán hàng. Với phương thức này, doanh nghiệp may sẽ chủ động mọi thứ và có cơ hội thăng tiến nhanh trên thị trường xuất khẩu.
Quy mô ngành dệt may Việt Nam lớn và cũng đã có thể sản xuất được nguyên liệu, tuy nhiên, năng lực chưa đủ nên cần nhập khẩu thêm từ các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan. Với 70% nguyên phụ liệu được nhập khẩu, ngành dệt may Việt Nam trở nên khá bị động, phụ thuộc vào những nước có nguồn hàng dồi dào.
Chất lượng nhân công trong ngành dệt may
Với gần 50 triệu người trong độ tuổi lao động, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào đối với ngành may nói riêng. Hơn nữa, do không đòi hỏi quá cao nên chi phí lao động cho ngành may tương đối thấp, đây là lợi thế lớn cho mọi doanh nghiệp may trong nước. Với chi phí sản xuất thấp, việc hạ giá thành sản phẩm trở nên dễ dàng hơn, giúp doanh nghiệp có thể cạnh tranh về giá với những doanh nghiệp cùng ngành.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực có chuyên môn, kỹ thuật cao chưa nhiều, năng suất lao động vẫn còn thấp nếu tính bình quân theo đơn vị sản phẩm. Đó chính là vấn đề cốt lõi cần thay đổi để tạo sự thành công cho dệt may Việt Nam.
Có thể thấy, quy mô ngành dệt may Việt Nam thật sự rất ấn tượng. Thế nhưng ngoài những ưu điểm cần phát huy, chúng ta cần nên hạn chế những nhược điểm mang tính sống còn. Để có được giải pháp toàn diện cho doanh nghiệp may, hãy đến với Cosma Technology. Chúng tôi mang đến cho doanh nghiệp những trang thiết bị hiện đại nhất, những phần mềm công nghệ tốt nhất để có thể nâng cao năng suất một cách thành công nhất.
Giải pháp tự động hóa phòng cắt Cosma mang đến giúp cải thiện quy trình sản xuất, vận hành trơn tru và nhanh hơn, loại bỏ thời gian bị ngừng hoạt động, kiểm soát được chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nhiều chi phí trong quy trình sản xuất. Giải pháp Cosma mang tới bao gồm: Máy cắt vải tự động, Máy nâng vải tự động, Máy trải vải tự động, Máy dán dán nhãn tự động và các bàn trải vải dùng trong nhà máy may: Bàn trải vải băng tải, bàn trải vải công nghiệp, bàn trải vải bằng hơi. Cùng với các phần mềm ngành may Cosma bao gồm: phần mềm CAD, phần mềm kỹ thuật số phòng cắt, phần mềm lập kế hoạch cắt… giúp cho các dữ liệu sẽ được kết nối, liên kết giữa các bộ phận, từ đó bạn có thể dễ dàng theo dõi giám sát ở bất kỳ đâu: hiệu quả hoạt động của máy móc, của người lao động, năng suất, thông tin bảo trì, các sự cố và nâng cao hiệu quả sản xuất của nhà máy….
Hãy cải thiện năng suất nhà máy của bạn hôm nay! Chúng tôi sẵn sàng giúp bạn! Đừng ngần ngại hãy liên hệ chúng tôi nhé. Với kinh nghiệm hơn 20 năm trong ngành dệt may của mình, chúng tôi sẽ luôn đồng hành cùng doanh nghiệp bạn phát triển các giải pháp tốt nhất, phù hợp nhất, mang đến lợi ích và hiệu quả tốt nhất.
Chính sách công (CSC) là chính sách của Nhà nước, do Nhà nước ban hành và thể hiện vai trò của Nhà nước trong quản lý xã hội. CSC là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách của quốc gia nhằm hiện thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước, là công cụ hữu hiệu để quản lý, điều hành và tạo điều kiện xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội tại những thời điểm nhất định.
Hoạch định và thực thi CSC là hai bước trong chu trình CSC. Hai hoạt động này có mối quan hệ biện chứng với nhau, nếu hoạch định chính sách tốt nhưng quá trình thực thi chính sách không tốt rất có thể hiệu lực và hiệu quả của chính sách không cao, thậm chí là “thất bại” và ngược lại, thực thi chính sách tốt nhưng chất lượng hoạch định chính sách không tốt, nó cũng có những ảnh hưởng nhất định, thậm chí không thực thi được. Chính vì vậy, hoạch định và thực thi chính sách luôn phải song hành, đồng bộ và tương xứng với nhau, tác động và tương hỗ với nhau một cách chặt chẽ, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của CSC.
Thứ nhất, CSC chưa theo kịp tình hình thực tiễn. Đời sống kinh tế – xã hội luôn vận động và phát triển, nảy sinh nhiều vấn đề mới, nhiều vấn đề bức thiết diễn ra cần có chính sách để giải quyết nhưng chính sách chưa theo kịp để can thiệp, giải quyết. Nhiều chính sách ban hành do nhiều lý do khác nhau nên không triển khai được vào thực tế.
Thứ hai, về quá trình hoạch định CSC ở Việt Nam hiện được triển khai theo các bước cơ bản: thiết lập nghị trình chính sách; xây dựng và đề xuất phương án chính sách; ban hành chính sách. Quá trình này, vẫn bị ảnh hưởng bởi cách làm cũ, tức vẫn mang tính khép kín, nội bộ, thậm chí là “áp đặt” chủ quan của các cơ quan nhà nước có quyền ban hành chính sách quyết định. Bởi lẽ từ khâu thiết lập nghị trình chính sách cho đến xây dựng và đề xuất phương án chính sách vẫn thuộc các cơ quan nhà nước, còn sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, của các doanh nghiệp và người dân vào quá trình này gần như không có.
Sở dĩ chưa có sự tham gia vì chưa có quy định pháp lý cụ thể, vậy nên quá trình hoạch định mặc nhiên thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước, các bên liên quan có chăng chỉ tham gia vào quá trình đóng góp ý kiến. Chính vì vậy, quá trình hoạch định chính sách không huy động được trí tuệ tập thể ngay từ khâu đề xuất. Dẫn đến chất lượng chính sách còn hạn chế, chưa có nhiều phương án kịch bản để lựa chọn, điều này đã được chỉ rõ tại Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VII) về một số quy định pháp luật về cơ chế, chính sách còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính thống nhất, ổn định, còn có biểu hiện lợi ích cục bộ, chưa tạo được bước đột phá trong huy động, phân bố và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển.
Chính sách ban hành chưa thể hiện tầm nhìn chiến lược và tư duy hệ thống, chưa xác định được lĩnh vực cần ưu tiên. Tình trạng chính sách chồng chéo giữa các lĩnh vực vẫn còn, dẫn đến việc đùn đẩy trách nhiệm hoặc né tránh; tính khả thi của chính sách thấp, khâu tổ chức thực hiện gặp khó khăn.
Hoạt động vận động chính sách, đánh giá tác động chính sách, phản biện xã hội trước, trong và sau trên thực tế có làm, có triển khai có báo cáo đầy đủ nhưng làm chưa thực chất. Các cơ quan thẩm định, phê duyệt chính sách chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của mình, vì thế, một số chính sách ban hành không phù hợp với thực tiễn.
Thứ ba, về thực thi CSC ở Việt Nam, còn có những hạn chế như: chưa bảo đảm tính kịp thời, nhất quán, đồng bộ, đặc biệt là chính sách kinh tế, an sinh xã hội. Việc thể chế hóa chủ trương chính sách vào thực tế còn chậm. Hoạt động phối hợp thực hiện giữa các cơ quan, bộ ngành chưa đồng bộ, chưa có cơ chế phối hợp rõ ràng. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách chưa kịp thời, phương pháp tuyên truyền chưa phù hợp dẫn đến các cơ quan, tổ chức và cá nhân hiểu không đầy đủ, thậm chí hiểu sai về chính sách. Nguồn lực triển khai thực hiện chính sách còn hạn chế, nguồn lực tài chính còn nặng về cơ chế “xin – cho”; về năng lực, trình độ của cán bộ, công chức, đặc biệt là thái độ trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách còn hạn chế. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, giám sát chưa kịp thời, còn mang tính hình thức, điều đó làm ảnh hưởng tiêu cực đến thực hiện chính sách.
Thứ tư, hoạt động hoạch định và thực thi CSC hiện đang thực hiện theo lối “thủ công”, tức chưa ứng dụng khoa học – công nghệ thông tin vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Hoạt động hoạch định chính sách cần đến dữ liệu lớn, khối lượng thông tin rộng với nhiều lĩnh vực khác nhau. Để có được khối lượng thông tin lớn, xử lý thông tin chính xác, các nhà hoạch định chính sách phải áp dụng khoa học – công nghệ thông tin vào quá trình này một cách tối ưu. Nhưng trên thực tế, hoạt động thu thập và xử lý thông tin đang làm theo lối “thủ công” chưa có dữ liệu thông tin dùng chung; chưa ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình thu thập và xử lý thông tin; chưa sử dụng các trang điện tử để lấy ý tưởng công khai từ phía người dân và doanh nghiệp vào quá trình đề xuất chính sách.
Để khắc phục những hạn chế, bất cập, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạch định và thực thi CSC đáp ứng sự thay đổi, phát triển của xã hội, Việt Nam cần đổi mới quá trình hoạch định và thực thi CSC trên một số nội dung cơ bản sau:
Một là, đổi mới tư duy hoạch định và thực thi CSC, phải đặt hoạt động hoạch định và thực thi CSC trong mối quan hệ biện chứng với nhau, có tính tương hỗ với nhau, cần có quy định thống nhất, xuyên suốt. Đối với khâu đề xuất chính sách, cần có đội ngũ chuyên gia chuyên nghiệp tham gia vào hoạch định chính sách. Đổi mới cách nghĩ, cách làm không chỉ giao cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề xuất sáng kiến mà cần huy động sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, các tổ chức, doanh nghiệp. Có như vậy, CSC mới có tính hệ thống, bảo đảm lợi ích của các bên tham gia và phù hợp với thực tiễn.
Hai là, đổi mới quá trình hoạch định và thực thi CSC theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, huy động sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi CSC. Quan điểm này đã được chỉ rõ tại Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nhấn mạnh việc đa dạng hóa các hình thức tham gia của người dân trong chu trình CSC, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của Nhân dân… là một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021- 2030.
Các hình thức để thực hành dân chủ và tăng cường sự tham gia của người dân bao gồm:
– Bảo đảm công khai, minh bạch thông tin, quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của mọi tầng lớp nhân dân;
– Thực hiện có hiệu quả dân chủ ở cơ sở với phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”;
– Nâng cao hiệu quả giám sát và phản biện xã hội. Phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị – xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng trong tham gia xây dựng, phản biện và giám sát thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải trình; quy định trách nhiệm pháp lý đủ mạnh cho các cơ quan, tổ chức và người đứng đầu cơ quan, tổ chức gắn với kết quả hoạch định và thực thi chính sách. Các quy định nên cụ thể về nội dung giải trình, trách nhiệm pháp lý, cần có chế tài đủ mạnh để cá nhân và tổ chức vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm. Tránh quy định mang tính nguyên tắc như: về trách nhiệm thông tin, báo cáo công khai và chịu sự giám sát của các cơ quan và người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước trước các cơ quan quyền lực nhà nước, trước cơ quan hành chính nhà nước cấp trên và trước Nhân dân.
Bốn là, các cơ quan có thẩm quyền hoạch định và thực thi chính sách cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Bộ tiêu chí này phải được ứng dụng một cách đồng bộ trong điều kiện gắn với chất lượng chính sách, tức chất lượng hoạch định với hiệu quả thực thi của các cơ quan nhà nước với đánh giá tín nhiệm người đứng đầu các cơ quan hoạch định và tổ chức thực thi chính sách và thêm vào đó là các quyết định về nhân sự và ngân sách thực hiện.
Năm là, xây dựng cơ chế phối hợp giữa hoạch định và thực thi chính sách, trong đó có quy định đến việc huy động sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Theo cách hiểu thông thường, khi người dân tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, người dân được đóng góp ý tưởng, được đề xuất nguyện vọng chính đáng của họ. Như vậy, nội dung chính sách ban hành sẽ phù hợp với mong đợi của người dân nên khi triển khai thực thi chính sách sẽ thuận lợi hơn, có tính thực tiễn cao hơn.
Sáu là, các cơ quan, tổ chức cần xây dựng niềm tin, tạo niềm tin cho người dân. Để người dân tham gia nhiều hơn vào quá trình hoạch định và thực thi CSC, các cơ quan, tổ chức phải tin tưởng vào khả năng có thể đóng góp tốt của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Hơn nữa, các cơ quan, tổ chức phải tạo được niềm tin từ phía người dân. Để xây dựng lòng tin với người dân, khi huy động sự tham gia của người dân, các cơ quan hoạch định và thực thi CSC phải làm một cách thực chất, tránh bệnh hình thức, “làm cho có”, những ý kiến đóng góp của người dân phải được tiếp thu (nếu đúng) hoặc phải giải trình nếu không tiếp thu. Hiện nay, các ý kiến đóng góp của người dân nếu không được tiếp thu cũng ít khi được giải trình nên chưa tạo được sự tin tưởng của người dân vì họ cho rằng, các ý kiến của họ không được xem xét một cách nghiêm túc.
Bảy là, hoạch định và tổ chức thực thi CSC một cách khoa học, hợp lý, gắn việc phân công trách nhiệm cụ thể với cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm việc hoạch định và thực hiện chính sách ở tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức và cá nhân. Đặc biệt, cần cụ thể hóa CSC bằng những chương trình hành động, kế hoạch thực hiện, ban hành văn bản hướng dẫn, đồng thời linh hoạt và điều chỉnh việc thực thi CSC trên cơ sở tiếp thu ý kiến, phản biện xã hội và triển khai thực tiễn ở từng giai đoạn.
Tám là, ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình hoạch định và thực thi CSC. Trong thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam đang triển khai xây dựng và thực hiện chuyển đổi số quốc gia, xây dựng chính phủ số, chính quyền điện tử, đô thị thông minh, công dân số, kinh tế số, xã hội số. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách là yêu cầu khách quan cần phải triển khai thực hiện ngay từ khâu đề xuất sáng kiến cho đến khâu triển khai thực thi, có ứng dụng công nghệ thông tin thì việc hoạch định và thực thi chính sách mới thể hiện được tính công khai, minh bạch, dân chủ và huy động sự tham gia của các bên liên quan và của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách một cách tối đa nhất có thể.
CSC là chính sách của Nhà nước với vai trò là công cụ quan trọng để quản lý và điều tiết mọi vấn đề của xã hội. Để chính sách phát huy vai trò quan trọng của nó, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoạch định và thực thi CSC cần xem xét và đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Việc hoạch định và thực thi chính sách suy cho đến cùng là để chính sách đi vào được thực tiễn của đời sống xã hội nhưng để chính sách đi vào được đời sống xã hội thì đời sống xã hội phải đi vào chính sách trước. Muốn vậy, cần phải đổi mới tư duy làm chính sách; đổi mới quá trình hoạch định và thực thi CSC theo hướng hiện đại, ứng dụng khoa học và công nghệ vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách; huy động sự tham gia của các bên liên quan và của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, có như vậy CSC mới đáp ứng được yêu cầu của xã hội đầy biến động như hiện nay.
Chính sách xã hội đối với phụ nữ được hiểu là hệ thống các chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước có liên quan đến phụ nữ đã được thể chế hóa nhằm tạo điều kiện cho người phụ nữ phát huy năng lực của mình trên mọi lĩnh vực của cuộc sống và đảm bảo công bằng xã hội giữa phụ nữ và nam giới.
Quán triệt quan điểm giải phóng phụ nữ gắn liền với giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, các chính sách xã hội đối với phụ nữ và gia đình ở nước ta đã sớm được hoạch định ngay từ ngày đầu tiên của Nhà nước. Tại điều 62, Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nêu rõ: “Mọi công dân, nữ cũng như nam đều có quyền bình đằng trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và trong gia đình. Mọi hành vi phân biệt đối xử và vi phạm nhân quyền của phụ nữ đều bị cấm. Phụ nữ và nam giới làm việc như nhau thì hưởng lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền nghỉ đẻ”.
Với quy định này, Việt Nam là một trong số ít quốc gia đi đâì trong việc thể chế hóa và đưa vào cuộc sống các nguyên tắc nam nữ bình quyền. Theo đó, Việt Nam cũng là nước Châu Á đầu tiên ký công ước quốc tế về chống mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Sự tiến bộ và công bằng xã hội không chỉ được thể hiện thông qua Hiến pháp mà còn trong Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới, Bộ Luật Lao động...
Chính sách xã hội đối với phụ nữ ở nước ta thể hiện một số vai trò rõ rệt như sau:
- Chính sách xã hội đối với phụ nữ góp phần đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội trong mọi lĩnh vực và đảm bảo cho sự phát triển toàn diện của phụ nữ. Công bằng và tiến bộ xã hội đối với phụ nữ là công bằng, tiến bộ về quyền con người và tạo điều kiện thực hiện cấc quyền đó của phụ nữ, tạo ra cơ hội phát triển và năng lực thực hiện các cơ hội phát triển của phụ nữ ở mỗi quốc gia.
- Hoạch định, thực thi chính sách còn xử lý và điều tiết các mối quan hệ bất bình đẳng giới trong xã hội trên các mặt chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục,... tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển một cách toàn diện và có cơ hội ngang nhau khi tiếp cận với các nguồn lực trong xã hội.
- Hoạch định và thực thi chính sách xã hội đối với phụ nữ có vai trò quan trọng trong thực hiện hòa nhập xã hội cho phụ nữ, tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, phát huy khả năng, nội lực của phụ nữ, thu hút phụ nữ vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, vào lãnh đạo, quản lý xã hội.
- Chính sách xã hội đốii với phụ nữ còn có vai trò đảm bảo cho người phụ nữ phát triển bền vững của các gia đình và xã hội nhờ nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Các chính sách hướng vào giải quyết việc làm cho phụ nữ, tăng thu nhập, xóa bỏ bạo lực, tao cơ hội cho phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội...
Đến thời điểm hiện nay, Việt Nam cũng đã xây dựng và hình thành hệ thống chính sách xã hội đối với phụ nữ cơ bản đầy đủ, cụ thể như sau:
Về cơ bản, quyền của phụ nữ trong Hiến pháp năm 1992 kế thừa những quy định tiến bộ của Hiến pháp năm 1980, nhung nhấn mạnh thêm: "Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ" (Điều 63).
+ Điều 26 Hiến pháp nhấn mạnh: Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội; nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.
+ Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 có hiệu lực ngày 1/1/2016, phụ nữ được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội như: Chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp, mất sức lao động... Bên cạnh đó, Luật còn quy định quyền lợi mang tính đặc thù đối với người phụ nữ như: Lao động nữ được hưởng các chế độ khám thai (nghỉ việc có hưởng lương trợ cấp), nghỉ việc hưởng lương trợ cấp sinh đẻ bằng 100% tiền lương, dưỡng sức sau khi sinh nếu sức khỏe yếu. Ngoài ra, các đối tượng xã hội là phụ nữ cũng được hưởng trợ giúp vật chất với tư cách đối tượng cứu trợ xã hội.
+ Bộ Luật Lao động 2019 dành một chương (chương X) quy định riêng về Lao động nữ;
+ Luật bình đẳng giới được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2007;
+ Nghị quyết 57/NQ ngày 01 tháng 12 năm 2009 ban hành chương trình hành động của chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực hiện nghị quyết 11 - NQ/ TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của bộ chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Quy định chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số.
4. Thực trạng thực hiện chính sách đối với phụ nữ
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước thực hiện nhiều bước đột phá về nhận thức và hành động, từ khía cạnh luật pháp, chính sách đến thực tiễn và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về bình đẳng giới và chính sách xẫ hội đối với phụ nữ. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua. Điểm nổi bật trong việc bảo đảm quyền lợi về giới ở Việt Nam là việc hoàn thiện khung luật pháp, chính sách về bình đẳng giới.
Theo Báo cáo Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ 2013 (MDG 2013), mục tiêu bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ là một trong 3 mục tiêu thiên niên kỷ đã được hoàn thành trước thời hạn năm 2015.
Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong việc thúc đẩy quyền phụ nữ như xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy thể hiện nguyên tắc về bình đẳng giới, không phân biệt đối xử theo quy định của Luật Bình đẳng giới 2006 và Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, lồng ghép bình đẳng giới trong việc xây dựng và thực thi pháp luật.
Việt Nam cũng ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu nâng cao nhận thức, thu hẹp khoảng cách về giới và nâng cao vị thế của phụ nữ; tích cực thực hiện các sáng kiến quốc tế và khu vực nhằm thúc đẩy việc bảo vệ quyền của phụ nữ và chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ.
Trong Báo cáo quốc gia của Việt Nam về việc thực hiện quyền con người theo cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ cập của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc mà Việt Nam là thành viên cho thấy, chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ được tập trung triển khai ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao. Điều này đã góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ.
Chính phủ cũng triển khai các giải pháp trong việc thực thi pháp luật cũng như hợp tác quốc tế nhằm vượt qua những thách thức chủ yếu liên quan tới nhận thức về bình đẳng giới; xóa bỏ bạo lực giới và bạo lực gia đình; khoảng cách về việc làm, thu nhập, địa vị xã hội...
Tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội khóa XIII (2011-2016) đạt 24,4%, đưa Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu vực và thế giới (đứng thứ 43/143 nước trên thế giới và thứ 2 trong ASEAN). Phụ nữ đảm nhiệm nhiều vị trí lãnh đạo chủ chốt của đất nước như Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng; 14/30 Bộ hoặc cơ quan trực thuộc Chính phủ có Thứ trưởng là nữ. Ở các địa phương, nhiều phụ nữ giữ vai trò chủ chốt ở các cấp, các ngành, góp phần giải quyết các vấn đề quan trọng. Nữ doanh nhân là người dân tộc thiểu số tăng, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số được phát huy.
Hiện nay, tỷ lệ lao động có việc làm là nữ giới chiếm 49%. Tính đến hết năm 2011, tỷ lệ phụ nữ biết chữ là 92%; khoảng 80% trẻ em gái ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số được đi học đúng tuổi. Tỷ lệ nữ sinh viên chiếm trên 50%, tỷ lệ thạc sỹ là nữ chiếm hơn 30% và 17,1% tiến sỹ là nữ giới.
Nỗ lực bảo đảm bình đẳng giới của Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận, theo xếp hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chỉ số bất bình đẳng giới, Việt Nam xếp thứ 47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010 (thứ hạng càng gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao)..
Trong thời gian qua, Nhà nước cơ bản đã ban hành tương đối đầy đủ chính sách pháp luật về phụ nữ. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện cho thấy vẫn còn một số hạn chế, bất cập nhất định. Đây là những vấn đề cản trở việc thực thi pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật.
Từ thực tiễn cuộc sống cho thấy, một số quy định còn tạo bất bình đẳng giữa nam và nữ như quy định tuổi nghỉ hưu đối với nữ là 55, nam là 60; hay việc chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện dẫn đến các chính sách, quy định chậm đi vào cuộc sống. Đơn cử, Nghị định số 39/2015/NĐ-CP quy định chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số. Cụ thể, sau 9 năm kể từ khi Luật Bình đẳng giới được ban hành, chính sách này vẫn chưa được thực hiện; nghị định được ban hành nhung còn phải chờ Thông tư hướng dẫn. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, khoản 4 Điều 14 Luật Bình đẳng giới quy định “Nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới 36 tháng được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ” hay trong lĩnh vực chính trị, tại điểm a khoản 5 Điều 11 Luật Bình đẳng giới quy định “Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù họp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới”. Tuy nhiên, đến thời điểm này, sau 10 năm luật này có hiệu lực, các quy định trên rất khó thực thi do chưa có các văn bản hướng dẫn.
Thực tiễn cũng cho thấy, một số chính sách, biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới đã được ban hành nhưng không phát huy hiệu quả. Chẳng hạn, như quy định "Các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật" (điểm a khoản 2 Điều 12) là một biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, nhưng trong thực tiễn, hầu hết các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ không được hưởng lợi. Nguyên nhân là do các quy trình, thủ tục để được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế đối với doanh nghiệp khá phức tạp, số tiền được giảm thuế chưa bù đắp được các chi phí khi áp dụng các ưu đãi đành cho lao động nữ, vì vậy, các doanh nghiệp thường ngại hoặc không muốn tiếp cận với chính sách ưu đãi này.
Ngoài ra, một số quy định còn mang tính định tính, khó định lượng (tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội; tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước); quy định nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới. Định kiến giới vẫn còn tồn tại khá phổ biến trong đời sống xã hội với danh nghĩa là các giá trị truyền thống, các phong tục tập quán. Vì vậy, việc thực thi pháp luật về bình đẳng giới, bảo đảm người phụ nữ được thụ hưởng các quyền luật định gặp rất nhiều khó khăn trong thực tiễn, nhất là ở vùng nông thôn, vùng kinh tế khó khăn.
Vấn đề khác cũng cần được quan tâm là rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật và chính sách gây bất lợi đối với phụ nữ trong các lĩnh vực; bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi văn bản quy phạm pháp luật, tăng các chính sách bù đắp dành riêng cho phụ nữ theo từng nhóm. Cụ thể, đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức cần có các chính sách, quy định pháp luật về tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại, quy hoạch, bổ nhiệm, các vấn đề an sinh xã hội hỗ trợ hài hòa công việc xã hội, gia đình và tuổi lao động. Đối với phụ nữ nông thôn liên quan chính sách, quy định pháp luật bảo đảm cơ hội và tạo điều kiện để xóa đói, giảm nghèo, từng bước vươn lên làm giàu; tổ chức tốt cuộc sống gia đình, chăm sóc, nuôi dạy con tốt; bảo hiếm xã hội (thai sản, tuổi già); an toàn và vệ sinh lao động. Đổi với lao động nữ (nhất là lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, lao động ngoài nhà nước) cần tập trung đề ra những chính sách, quy định pháp luật về nhà ở, nhà trẻ, mẫu giáo, việc làm ổn định, tiền lương và thu nhập. Đối với phụ nữ làm chủ doanh nghiệp, chủ hộ kinh doanh cá thể cần có chính sách, quy định pháp luật bảo đảm cơ hội và tạo điều kiện thúc đẩy thương mại, xuất khẩu hàng hóa và có giảm thuế trong thời gian nghỉ sinh con.
Việc ban hành và thực thi các biện pháp mạnh để xóa bỏ định kiến giới; tăng cường các biện pháp khôi phục hương ước lành mạnh; coi trọng công tác đào tạo và bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho phụ nữ cần được coi trọng hơn nữa. Tăng cường việc tập huấn, bồi dưỡng kiến thức giới, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới cho đội ngũ cán bộ làm công tác hoạch định chính sách, cán bộ pháp chế của các bộ, ngành, địa phương. Chú trọng và nâng cao hiệu quả việc tổ chức thi hành pháp luật nhằm bảo đảm các quy định của pháp luật sớm được thực thi và thực thi đúng. Quan tâm chỉ đạo, đẩy mạnh kiểm tra, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật.
5. Định hướng hoàn thiện chính sách xã hội đối với phụ nữ
Quyền của phụ nữ được ghi nhận trong các bản Hiến pháp, đặc biệt là Điều 26 Hiến pháp năm 2013: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”.
Tuy nhiên, khác với nam giới, phụ nữ phải đảm nhiệm nhiều vai trò: Vừa là lao động, vừa là vợ, là mẹ, có nghĩa vụ, bổn phận chăm sóc gia đình. Do đó, cần thiết phải có những quy định riêng nhằm mục đích bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ và đinh hướng hoàn thiện chính sách xã hội đối với phụ nữ. Các quy định dành riêng cho phụ nữ được quy định tập trung tại Luật Bình đẳng giới năm 2006, Bộ luật Lao động năm 2019 (BLLĐ), Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.
Chính sách hỗ trợ, khuyến khích
- Nhà nước bảo đảm quyền làm việc bình đẳng của lao động nữ, khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà và có biện pháp tạo việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hòa cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình.
- Người sử dụng lao động, có sử dụng nhiều lao động nữ được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về thuế. Các khoản chi tăng thêm cho lao động nữ được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của Bộ Tài chính. Nhà nước có kế hoạch, biện pháp tổ chức nhà trẻ, lớp mẫu giáo ở nơi có nhiều lao động nữ.
Nghĩa vụ của người sử dụng lao động đối với lao động nữ
Theo quy định tại Bộ Luật lao động 2019 thì người sử dụng lao động khi sử dụng lao động nữ phải tuân theo một số nghĩa vụ sau đây:
- Bảo đảm thực hiện bình đẳng giới và các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương và các chế độ khác. Cụ thể: người sử dụng lao động có trách nhiệm thực hiện quyền bình đẳng giữa lao động nữ và lao động nam trong tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, tiền lương, khen thưởng, thăng tiến, trả công lao động, các chế độ về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, điều kiện lao động, an toàn lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, các chế độ phúc lợi khác về vật chất và tinh thần.
- Tham khảo ý kiến của lao động nữ hoặc đại diện của họ khi quyết định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ. Bảo đảm có đủ buồng tắm và buồng vệ sinh phù họp tại nơi làm việc.
- Giúp đỡ, hỗ trợ xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc một phàn chi phí gửi trẻ, mẫu giáo cho lao động nữ. Căn cứ điều kiện cụ thể, người sử dụng lao động xây dựng phương án, kế hoạch giúp đờ, hỗ trợ, xây dựng nhà trẻ, lóp mẫu giáo hoặc hỗ trợ một phần chi phí gửi trẻ, mẫu giáo đối với lao động nữ có con trong độ tuổi gửi trẻ, mẫu giáo bằng tiền mặt hoặc hiện vật. Mức và thời gian hỗ trợ do người sử dụng lao động thỏa thuận với đại diện lao động nữ.
Chế độ làm việc, chế độ chính sách đối với lao động nữ khi mang thai, sinh nở
- Theo quy định tại người sử dụng lao động và các văn bản bản hướng dẫn thi hành, người sử dụng lao động không được sử dụng lao động nữ làm việc ban đêm, làm thêm giờ hoặc đi công tác xa trong trường họp: (i) Lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7, hoặc (ii) đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
- Lao động nữ làm công việc nặng nhọc khi mang thai từ tháng thứ 7, được chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc được giảm bớt 1 giờ làm việc hàng ngày mà vẫn hưởng đủ lương. Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vĩ lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động. Trong thời gian mang thai, nghỉ hưởng chế độ khi sinh con theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, lao động nữ không bị xử lý kỷ luật lao động.
- Lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút, tối thiểu là 03 ngày trong một tháng; trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc để cho con bú, vắt, trữ sữa, nghỉ ngơi. Thời gian nghỉ vẫn được hưởng đủ tiền lương theo hợp đồng lao động.
- Điều 139 Bộ Luật lao động năm 2019 quy định: “Lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con là 06 tháng”. Trong thời gian nghỉ thai sản, các chế độ áp dụng đối với lao động nữ được thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, trong đó, chế độ hưởng nguyên lương là quan trọng nhất, bảo đảm quyền lợi về mặt vật chất cho người lao động nữ.
- Hết thời gian nghỉ thai sản 06 tháng, nếu có nhu cầu, lao động nữ có thể nghỉ thêm một thời gian không hưởng lương theo thỏa thuận với người sử dụng lao động. Hoặc lao động nữ có thể đi làm sớm hơn thời gian nghỉ thai sản theo quy định, tuy nhiên, Điều 139 Bộ Luật lao động năm 2019 quy định: “ Trước khi hết thời gian nghỉ thai sản theo quy định tại khoản 1 Điều này, lao động nữ có thể trở lại làm việc khi đã nghỉ ít nhất được 04 tháng nhưng người lao động phải báo trước, được người sử dụng lao động đồng ý và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc đi làm sớm không có hại cho sức khỏe của người lao động”.
- Ngoài ra, lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ; người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi; lao động nữ đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình đều là những trường hợp được hưởng chế độ thai sản theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.
Quyền đơn phương chẩm dứt, tạm hoãn hợp đồng lao động của lao động nữ mang thai
Lao động nữ mang thai nếu có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi thì có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc tạm hoãn thực hiện họp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động, kèm theo ý kiến đề nghị của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi. Thời hạn báo trước để đơn phương chấm dứt, tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động theo thời hạn mà cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định.
Trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, thời gian tạm hoãn do người lao động thỏa thuận với người sử dụng lao động, nhưng tối thiểu phải bằng thời gian do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định tạm nghỉ. Trường hợp không có chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về thời gian tạm nghỉ thì hai bên thỏa thuận về thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.
Quyền lợi của phụ nữ trong thi hành án
- Nữ phạm nhân phạm tội bị xử án tử hình mà có thai thì sẽ được chuyển sang chung thân.
Khoản 2, 3 và khoản 4 Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này hoặc trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân”.
- Không xử lý hình sự đối với trường họp nữ hiếp dâm nam:
Tiếp nối tinh thần của pháp luật hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 không phân biệt rõ chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi hiếp dâm là nam giới hay nữ giới. Bất kỳ “người nào” thực hiện hành vi thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại Điều 141 của Luật mới đều phải bị xử lý. Tuy nhiên do xuất phát từ hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao về đường lối xét xử của loại tội này từ năm 1967 (từ khi chưa có Bộ luật Hình sự ra đời) cũng như từ thực tiễn xét xử đã tạo ra lối mòn tư duy và tiền lệ cho đến nay rằng chủ thể của tội hiếp dâm đa phần là nam giới.
- Người chồng ngoại tình dẫn đến ly hôn sẽ bị phạt tù, quy định cụ thể tại Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:
“Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường họp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đén 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Phạm tội thuộc một trong các trường họp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đén 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó”.
Quyền lợi của phụ nữ quy định trong Luật Bình đẳng giới và các chiến lược quốc gia, chương trình hành động của Chính phủ, bộ, ngành, địa phương về bình đẳng giới và bảo vệ phụ nữ, trẻ em
- Xử lý chênh lệch lương hưu của lao động nữ nghỉ hưu trước và sau thời điểm 01/01/2018 theo Điều 56, Điều 74 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Bởi hiện nay vẫn còn hạn chế trong quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 là đối với nam thì việc điều chỉnh được thực hiện theo lộ trình, nhưng đối với nữ thì không theo lộ trình, dẫn đến tạo chênh lệch giữa mức hưởng lương hưu của lao động nữ có cùng thời gian đóng bảo hiểm xã hội (có dưới 30 năm đóng bảo hiểm xã hội) nghỉ hưu trước và sau thời điểm 01/01/2018.
- Giải quyết vấn đề bạo lực, buôn bán, xâm hại phụ nữ và trẻ em thông qua việc tiếp tục đẩy mạnh triển khai chương trình Phòng, chống mua bán người giai đoạn 2016 - 2020 của Chính phủ; Đề án Phòng ngừa và ứng phó bạo lực trên cơ sở giới của Bộ Lao động Thương binh và xã hội...
Như vậy, các quy định của pháp luật lao động Việt Nam về bảo vệ lao động nữ hiện nay là khá đầy đủ. Tuy nhiên, để các chính sách mới nêu trên thực sự đi vào cuộc sống một cách thiết thực, hiệu quả, người sử dụng lao động phải có trách nhiệm thực hiện đầy đủ pháp luật lao động bảo đảm quyền lợi cho lao động nữ, trong quá trình thực hiện có điều bất cập cần kiến nghị với Nhà nước để sửa đổi. Người lao động nữ cũng cần phải ý thức được tầm quan trọng của việc hiểu biết pháp luật lao động, một mặt để đóng góp xây dựng doanh nghiệp mặt khác tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Cùng với đó vai trò và trách nhiệm của tổ chức đại diện cho lao động nữ, cần nhanh chóng thành lập các tổ chức công đoàn và Ban nữ công trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Công đoàn trong các doanh nghiệp phải độc lập với chủ doanh nghiệp về tài chính và con người, chỉ có như vậy mới thực sự là tổ chức đại diện bảo vệ quyền lợi của người lao động nói chung và lao động nữ nói riêng. Công đoàn - Ban nữ công cần nắm chắc kiến thức về giới và pháp luật lao động để phổ biến các kiến thức về giới, bình đẳng giới và pháp luật cho lao động nữ nhằm nâng cao nhận thức của lao động nữ để họ tự bảo vệ quyền lợi và đóng góp cho xã hội.
Tham vấn: Luật sư Lê Minh Trường